(VNF) – Việt Nam đã thu hút được hàng nghìn dự án FDI của các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia (TNCs) nằm trong 500 TNCs hàng đầu thế giới. Samsung là một trường hợp điển hình.
Samsung, nhà đầu tư lớn nhất Việt Nam.
Samsung toàn cầu
Samsung do Ông Lee Byung-Chul thành lập năm 1938; khởi đầu là một công ty thương mại nhỏ, nhưng sau ba thập niên đã trở thành tập đoàn kinh tế đa ngành: dệt may, thực phẩm, bảo hiểm, chứng khoán, thương mại; từ cuối thập niên 60 của thế kỷ XX đầu tư vào công nghiệp điện tử, sau đó là đóng tàu và xây dựng.
Năm 1987 Samsung chia thành 4 tập đoàn: Tập đoàn Samsung, Shinsegae, CJ và Hansol. Từ thập niên 90 Tập đoàn Samsung có quy mô toàn cầu, đến đầu 2014 hoạt động tại 90 quốc gia với 425 nghìn nhân viên, trong đó Samsung Electronics là công ty điện tử có doanh thu lớn nhất và có giá trị thị trường lớn thứ tư thế giới (năm 2012), Samsung Heavy Industries là công ty đóng tàu có doanh thu lớn thứ hai thế giới (năm 2010), Samsung Engineering và Samsung C&T là công ty xây dựng lớn thứ 13 và 36 thế giới (2012), Samsung Life Insurance là công ty bảo hiểm lớn thứ 14 thế giới, Samsung Techwin là công ty không gian vũ trụ, thiết bị giám sát, bảo vệ và Cheil Worldwide là công ty quảng cáo có doanh thu lớn thứ 16 thế giới (2011).
Samsung là nhà sản xuất vi mạch lớn thứ hai thế giới sau Intel, là nhà sản xuất màn hình tinh thể lỏng lớn nhất thế giới, đã thành lập Công ty liên doanh với Sony- S-LCD để sản xuất màn hình lớn TFT-LCD cho cả hai tập đoàn; ngày 26/12/2011, Samsung đã mua lại cổ phần của Sony tại S-LCD.
Quý 1/2012, Samsung Electronics trở thành nhà sản xuất điện thoại di động lớn nhất thế giới, soán ngôi Nokia đã giữ vị trí này từ năm 1998. Năm 2000, Samsung mở phòng thí nghiệm lập trình máy tính tại Warszawa, Ba Lan, nghiên cứu công nghệ giải mã tín hiệu truyền hình, sau đó là TV kĩ thuật số và điện thoại thông minh; đến năm 2011 là trung tâm R&D quan trọng nhất ở châu Âu với khoảng 400 cán bộ nghiên cứu.
Samsung có giá trị vốn hóa 227 tỷ đô la Mỹ (tháng 11 năm 2013), chiếm 20% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa, có doanh thu bằng 17% GDP của Hàn Quốc, là niềm tự hào của xứ sở Kim Chi, góp phần quan trọng làm nên “Kỳ tích Sông Hàn”.
Samsung Việt Nam
Samsung đầu tư tại Việt Nam từ năm 1996 với một liên doanh quy mô nhỏ. Năm 1997 Samsung thực hiện dự án với vốn đầu tư 650 triệu USD để sản xuất điện thoại di động, máy tính bảng tiếp đó sản xuất sản phẩm điện tử gia dụng như tivi, máy điều hóa nhiệt độ, máy giặt..
Tổng vốn đăng ký của Samsung hiện là 17 tỷ USD (vốn thực hiện khoảng 10 tỷ USD), có 6 nhà máy tại Bắc Ninh, Thái Nguyên và TP. HCM, tạo việc làm cho 136.700 lao động với thu nhập bình quân 11 triệu đồng/ tháng, trong đó có hàng vạn kỹ sư, cán bộ quản lý, chuyên gia kinh tế, chưa tính hơn 12 vạn lao động tại các xí nghiệp công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho Samsung và hàng vạn người làm dịch vụ cho thuê nhà, ăn uống, giải trí, phục vụ sinh hoạt.
Tại Hà Nội, Samsung đã thành lập Trung tâm R&D quy mô lớn, hiện có trên 1.600 kỹ sư trẻ của Việt Nam đang làm việc trong điều kiện công nghệ hiện đại, phương thức nghiên cứu tiên tiến và môi trường làm việc văn minh.
Năm 2017, Samsung dự kiến doanh thu đạt 60 tỷ USD, xuất khẩu ra thị trường 52 nước và vùng lãnh thổ với kim ngạch 50 tỷ USD, chiếm gần 25% tổng kim gạch xuất khẩu của Việt Nam.
Báo cáo tài chính của Samsung cho biết, năm 2016 bất chấp sự cố Galaxy Note 7, doanh thu và lợi nhuận của hãng này vẫn tăng mạnh; Samsung Bắc Ninh đạt doanh thu 408.147 tỷ đồng, lợi nhuận ròng gần 43.000 tỷ đồng, tăng hơn 5%; tổng cộng 4 công ty của Samsung tại Việt Nam đạt doanh thu hơn 1,05 triệu tỷ đồng, lợi nhuận gần 100.000 tỷ đồng. Tính đến cuối năm 2016, tổng tài sản của Samsung Việt Nam trên 457.191 tỷ đồng (20 tỷ USD).
Tổng số tiền nộp thuế của Samsung năm 2014 là 165 triệu USD; năm 2015 tăng lên 186 triệu USD; năm 2016 là 300 triệu USD 6.750 tỷ đồng) và nửa đầu năm 2017 là 186 triệu USD (4.185 tỷ đồng).
Cần lưu ý rằng, Samsung vận hành nhà máy đầu tiên tại Bắc Ninh vào tháng 4/2009, được hưởng chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp công nghệ cao (thuế thu nhập doanh nghiệp 10%, miễn 4 năm, giảm 50% trong 9 năm tiếp theo) nên Samsung Bắc Ninh bắt đầu nộp thuế thu nhập doanh nghiệp từ năm 2013, Samsung Thái Nguyên thì từ năm 2018. Do vậy trong những năm tới số thuế Samsung phải nộp vào ngân sách sẽ tăng lên nhanh chóng khi hết thời hạn được hưởng ưu đãi thuế.
Samsung dự kiến sẽ mở rộng sang nhiều lĩnh vực đầu tư khác tại Việt Nam như Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 3 tại Hà Tĩnh có vốn đầu tư dự kiến 2,45 tỷ USD, sân bay Long Thành, công nghệ thông tin…
Vì sao Samsung chọn Việt Nam để làm cứ điểm sản xuất hàng điện tử cung ứng cho thị trường thế giới?
Ngoài những ưu thế của Việt Nam như ổn định chính trị, ổn định kinh tế vĩ mô, an ninh, an toàn cho nhà đầu tư, Chính phủ thực hiện cải cách mạnh mẽ bộ máy nhà nước đẻ tạo lập môi trường kinh doanh và đầu tư thuận lợi hơn; lãnh đạo Samsung tại Việt Nam còn nhận định rằng, Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào đáp ứng được yêu cầu của công nghệ hiện đại.
Bên cạnh đó, các kỹ sư trẻ Việt Nam làm việc tại Trung tâm R&D Hà Nội có trình độ nghiên cứu cao đáp ứng đòi hỏi của Samsung; công nhân tại các nhà máy đạt năng suất lao động khoảng 80% công nhân Hàn Quốc (nhưng thu nhập bằng 1/3).
Samsung với doanh nghiệp Việt Nam
Từ năm 2014, Hiệp hội doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (VAFIE), Cục Đầu tư nước ngoài hợp tác với Samsung triển khai kế hoạch phát triển CNHT, đã tiến hành khảo sát một số doanh nghiệp, tổ chức hội thảo kết hợp triển lãm những chi tiết, linh kiện sản phẩm của Samsung. Năm 2014 và 2015 có 10 doanh nghiệp làm CNHT cho Samsung, nhưng đến năm 2016 và 2017 đã gia tăng nhanh chóng, đến nay có 225 DNCNHT, trong đó có 25 doanh nghiệp cấp I.
Câu chuyện Samsung là điển hình về việc tham gia chuỗi cung ứng của một tập đoàn hàng đầu thế giới về công nghiệp điện tử.
Từ tháng 9/2015 đến giữa năm 2016, Samsung đã triển khai chương trình tăng cường năng lực cho các nhà cung ứng Việt Nam, thông qua việc cử chuyên gia từ Hàn Quốc sang trực tiếp hỗ trợ cho 9 công ty Việt Nam trong ba tháng.
Chuyên gia Hàn Quốc hỗ trợ doanh nghiệp cải tiến quy trình sản xuất, hoàn thiện các tiêu chuẩn trong việc cung ứng linh kiện, phụ kiện cho nhà máy của Samsung tại Việt Nam. Kết quả đạt được là rất đáng khích lệ, lãnh đạo doanh nghiệp Việt Nam đánh giá cao sự hợp tác có hiệu quả của Samsung.
Sau 3 tháng được chuyên gia Samsung tư vấn, Công ty Goldsun có tỷ lệ hàng tồn kho giảm hơn 60%, tỷ lệ lỗi thiết bị giảm 72%, trong khi tỷ lệ sản xuất chính xác tăng từ 0% lên 94%; Công ty Mida hiệu suất tổng hợp thiết bị tăng 26%, năng suất vận hành thiết bị tăng 59%, tỷ lệ hàng lỗi giảm 52%, tỷ lệ hàng tồn kho giảm 54%.
Trao đổi với đại diện Công ty TNHH Nhựa Phước Thành, ông Lee Sang Su, Tổng giám đốc SEHC chia sẻ: “Samsung chỉ cần nhìn thấy các công ty Việt Nam làm tốt như công ty Hàn Quốc thì sợi dây liên kết giữa chúng ta sẽ gắn bó hơn. Tuy vậy, chúng tôi vẫn mong muốn, các doanh nghiệp Việt Nam tiếp tục nỗ lực hết sức cải tiến sản xuất, cải thiện điều kiện làm việc của người lao động”.
Từ kinh nghiệm hợp tác thành công giữa DNVN với tập đoàn Samsung có thể khẳng định rằng, DNVN có đủ điều kiện và năng lực tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu nếu: Tự tin và chủ động trong việc tìm kiếm cơ hội để thiết lập quan hệ hợp tác tin cậy với TNCs đang kinh doanh tại Việt Nam; Coi đổi mới, sáng tạo là định hướng lớn để đầu tư vào công nghệ, đào tạo và bồi dưỡng nhân lực trình độ cao theo lộ trình thích hợp; Doanh nghiệp FDI kết nối với DNVN, hỗ trợ thiết thực về chuyên gia, giải pháp công nghệ, quản trị doanh nghiệp để nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh, trên cơ sở dó ngày càng có nhiều DNVN tham gia các khâu có giá trị gia tăng cao..
Samsung muốn được coi là doanh nghiệp Việt Nam, sản phẩm của Samsung là sản phẩm Việt Nam. Samsung không những trực tiếp mang vốn đầu tư, công nghệ, phương thức quản trị doanh nghiệp, tạo việc làm và thu nhập cho hàng trăm nghìn người lao động, đóng góp ngày càng nhiều cho kinh tế – xã hội Việt Nam, mà còn có tác động lan tỏa, kéo theo hàng trăm doanh nghiệp Hàn Quốc đầu tư ở nước ta để làm CNHY, cung ứng vật tư, hàng hóa cho Samsung.
Điều đó có lợi cho Samsung, đồng thời có lợi cho Việt Nam để gia tăng tốc độ phát triển theo hướng bền vững, đồng thời góp phần vun đắp tình hữu nghị tốt đẹp giữa hai dân tộc, hai quốc gia.